Cách chơi chứng khoán

Chơi chứng khoán cần chú ý theo dõi quỹ ETF

Quỹ ETF là gì?

qu ỹ ETF được xây dựng dưới hình thức là một quỹ theo mô hình “Trust” hoặc 1 quỹ tương hỗ mở, với mục đích mô phỏng diễn biến của một Chỉ số, 1 Hàng hóa hoặc 1 rổ cổ phiếu và với chứng chỉ qu ỹ ETF được giao dịch như 1 cổ phiếu niêm yết trên một sàn giao dịch.
Giá chứng chỉ qu ỹ ETF với thể giao dịch tại 1 giá tiền cao hơn (Premium) hoặc rẻ hơn (discount) mức giá NAV của quỹ ETF ấy. Tuy nhiên các khoảng chênh lệch giữa giá thị trường và giá NAV của ETF thông thường sẽ được san bằng thông qua hoạt động arbitrage (mua bán đồng thời) của những nhà đầu tư tổ chức. Nhìn chung, giá giao dịch của ETF phản ánh tương đối chính xác giá trị thực của các cổ phiếu trong rổ cổ phiếu của qu ỹ ETF .
Từ cuối thập niên 80 lúc quỹ ETF đầu tiên được hình thành tại Bắc Mỹ (được biết tới nhất là quỹ ETF trên chỉ số S&P 500, giao dịch trên thị trường NYSE dưới mã SPY), các quỹ dạng này đã bùng nổ cực kỳ mạnh mẽ, mang nhiều chủng cái bao gồm những quỹ ETF mô phỏng chỉ số các ngành công nghiệp (nhưquỹ ETF công nghệ cao QQQ theo sát chỉ số NASDAQ), các quỹ ETF trên chỉ số các công cụ nợ, những quỹ ETF trên diễn biến chỉ số chứng khoán ở các thị trường lớn mạnh (Châu Âu, Nhật Bản, Úc, v.v), những thị trường mới nổi (Braxin, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ), các thị trường biên (Frontier market) (Sri Lanka, Nigeria, Việt Nam,v.v), các qu ỹ ETF IPO và chỉ số hàng hóa (các chỉ số trên các hàng hóa kim mẫu như quỹ ETF vàng).
gần đây, với đa dạng dòng qu ỹ ETF khác được phát hiện trên thị trường như các quỹ ETF năng động, tậu phương pháp đạt sinh lời đa dạng hơn chỉ số mà nó mô phỏng, những quỹ ETF là cácquỹ mở sử dụng đòn bẩy tài chính và qu ỹ ETF bán khống , sử dụng các công cụ nợ để đạt nhiều khoản lời hoặc lợi nhuận ngược, so sở hữu mức sinh lời của chỉ số mà quỹ đấy mô phỏng.

ạ i sao ETF tr ở phải ph ổ bi ế ?


những qu ỹ ETF phổ biến nhất trên thế giới là những ETF trên những chỉ số cổ phiếu. các quỹ này mô phỏng vào những chỉ số cổ phiếu nức tiếng như những chỉ số MSCI và FTSE.
Quỹ chỉ số cổ phiếu thứ 1 ra đời vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước. các qu ỹ ETF này đã rất được nhà đầu tư tổ chức quan tâm. Sau ấy, các nhà đầu tư cá nhân mới ưa chuộng.
Lý do các nhà đầu tư quan tâm những qu ỹ ETF là do 1 học thuyết gọi là thuyết Thị trường hiệu quả (EMH). Theo lý thuyết này, NĐT ko thể thắng thị trường chứng khoán trường hợp ko chấp nhận thêm rủi ro của cổ phiếu. Năm 1975, Ông John Bogle, cựu CEO của Vanguard Funds, đưa ra lập trường “nếu không thắng được thị trường, thì đi theo nó” và xây dựng thương hiệu quỹ chỉ số đầu tiên mô phỏng chỉ số S&P 500.
Thực tế cho thấy, rất nhiều những quỹ tương hỗ ở Mỹ ko thể thắng liên tục thị trường chứng khoán. Thống kê chính xác tùy thuộc theo năm, nhưng trung bình 60-80% các quỹ chứng khoán ở Mỹ ko thắng được chỉ số S&P 500. Nguyên nhân chủ yếu là những nhà quản lý quỹ ko thể ra vào thị trường đúng khi và ko thể chọn đúng cổ phiếu cho danh mục của mình.

giai đoạn hình thành qu ỹ ETF

Việc hình thành quỹ ETF được khởi điểm khi những siêu thị quản lý qu ỹ ETF (thường gọi là các Sponsor) nộp đơn lên Ủy ban Chứng khoán tại Mỹ (SEC) để tạo buộc phải 1 quỹ ETF. lúc kế hoạch được SEC thông qua doanh nghiệp QLQ Sponsor thỏa thuận với một ngân hàng thanh toán, thường là ở 1 ngân hàng quốc tế, sở hữu quyền phát hành và chọn lại những chứng chỉ quỹ ETF.
Ngân hàng thanh toán sẽ mua những rổ cổ phiếu để tạo buộc phải 1 chứng chỉ qu ỹ ETF bằng cách đưa rổ cổ phiếu này vào một tài khoản Trust. những nhóm chứng chỉ quỹ bao gồm các rổ cổ phiếu với số lượng từ 10.000 đến 600.000 đơn vị (phổ biến nhất là rổ 50.000 đơn vị). Sau ấy, Ngân hàng thanh toán hoán đổi các nhóm chứng chỉ quỹ để nhận các đơn vị qu ỹ ETF . Tiếp sau đấy, những chứng chỉ sẽ được giao dịch trên thị trường giống như các cổ phiếu niêm yết thông thường.
khi những chứng chỉ ETF được giao dịch, các cổ phiếu đã được tậu để tạo cần nhóm chứng chỉ quỹ vẫn được giữ nguyên trong tài khoản Trust. các quỹ này rất ít hoạt động ko kể việc trả cổ tức của các các cổ phiếu ở trong quỹ cho những nhà đầu tư nắm giữ các chứng chỉ ETF và phân phối các dịch vụ quản lý cho quỹ.
Khi những nhà đầu tư muốn bán các chứng chỉ qu ỹ ETF của mình thì mang thể tiến hành theo một trong 2 cách sau:
1) cách thứ nhất là bán các chứng chỉ trên thị trường chứng khoán. Đây là cách nhiều nhất mà những nhà đầu tư cá nhân áp dụng
2) cách vật dụng hai là tập hợp đủ chứng chỉ qu ỹ ETF để tạo bắt buộc một nhóm chứng chỉ quỹ, sau đó tiến hành hóa chuyển đổi nhóm chứng chỉ đổi lấy các cổ phiếu. bí quyết này chỉ mang thể áp dụng cho các nhà đầu tư tổ chức do đòi hỏi khối lượng chứng chỉ to để hinh thành nên nhóm chứng chỉ lúc các nhà đầu tư này tiến hành việc bán, nhóm chứng chỉ quỹ sẽ được hủy và những cổ phiếu được hoán đổi sẽ trả lại sau.

Qu ả n lý đ ầ u t ư ch ỉ ố ET F


các giám đốc quỹ với một quy trình kỷ kuật trong việc quản lý hàng ngày những qu ỹ ETF . Mục đích của ETF theo chỉ số là để mô phỏng chính xác lợi nhuận của chỉ số hàng ngày, bằng rộng rãi cách khác nhau.
1 trong các bí quyết đơn giản nhất là quỹ đầu tư ETF nắm giữ đa số đa số các cổ phiếu trong chỉ số cổ phiếu và theo các tỷ trọng của các cổ phiếu đó trong chỉ số.
1 kỹ thuật khác là phương pháp tối ưu hoá (Optimization process), bằng cách phân tích lợi nhuận quá khứ và dữ liệu hồi quy của những cổ phiếu phù hợp chọn lọc trên thị trường, dựa vào chính sách đầu tư và các điều khoản trong bản cáo bạch.
các cổ phiếu phù hợp bao gồm tất cả các cổ phiếu niêm yết mà ETF muốn tiêu dùng để mô phỏng chỉ số và cũng sở hữu thể bao gồm các cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch những nước khác, với điều kiện các doanh nghiệp này phải có hoạt động đáng nhắc trong nước của chỉ số ETF.
Mục đích của việc thông minh hoá là để xác định một số lượng cổ phiếu ko quá phổ biến nhưng vẫn đại diện được cho chỉ số. giai đoạn logic hoá giúp các giám đốc qu ỹ ETF tránh sự sai lệch giữa danh mục ETF và mức nâng cao giảm của chỉ số, mức lệch này còn được gọi là sai số mô phỏng (tracking errors).

ETF Việt Nam – Vietnam Equity Index ETFs

Đối mang những nhà đầu tư nước ko kể, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn được coi là một thị trường biên (frontier market). khi đầu tư vào Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoại trừ ít khi sử dụng VNIndex để khiến tiêu chuẩn đo lợi nhuận của họ. 1 trong những lý do là VNIndex không thể mô phỏng được dễ dàng vì Index này với gần 300 mã cổ phiếu và hơn nữa nhiều cổ phiếu không với “room” cho nhà đầu tư nước bên cạnh.
Nhà đầu tư nước ngoài thích tiêu dùng chỉ số do những doanh nghiệp quản lý index quốc tế xây dựng như MSCI và FTSE. MSCI đã xây dựng MSCI Viet Nam Index gồm 14 cổ phiếu trên thị trường HoSE. FTSE cũng xây dựng FTSE Vietnam Index gồm có 33 cổ phiếu niêm yết trên HoSE hoặc HNX. Cả hai chỉ số MSCI và FTSE xếp mẫu Việt Nam trong nhóm Index thị trường biên (MSI Frontier Market), bao gồm 25 tới 30 nước khác như Argentina, Barhain, BanglaDesh, Jordan, Kuwait, Oman, Qatar và Ukraine.
mới đây, những nhà hàng tư vấn đầu tư và “Asset Management” đã xây dựng chỉ số Market Vectors Vietnam Index (MVVNM Index). Index này xây dựng trên những quy định đơn thuần để phân phối cho nhà đầu tư 1 công cụ mô phỏng theo sự biến động của một rổ cổ phiếu các doanh nghiệp tuân thủ những chỉ tiêu sau đây:
a) với trụ sở và niêm yết chủ yếu ở Việt Nam
b) Được kỳ vọng tạo ra 50% doanh thu ở Việt Nam
c) Nắm giữ 1 vị trí bậc nhất tại Việt Nam và có kỳ vọng phát triển.
MVVNM Index nhằm nắm giữ tối thiểu 25, tối đa 75 cổ phiếu chiếm 90% mức vốn hóa giao dịch tự do của thị trường. bên cạnh đấy, MVVNM áp dụng tỷ lệ trần (mức cao nhất) đối có phân khúc những siêu thị trong nước và các công ty nước ngoài.
Tổng tỷ trọng của tất cả các cổ phiếu niêm yết trong nước trong danh mục MVVNM được giữ ở mức cao nhất là 70% và tổng tỷ trọng của những doanh nghiệp hải ngoại trong danh mục MVVNM giữ ở mức trần là 30%.
Tương tự như những quỹ ETF ở các nước khác, toàn bộ các qu ỹ ETF tại việt nam đều theo 1 chiến lược đầu tư thụ động, tức là chỉ thay đổi danh mục đầu tư lúc những cấu phần của chỉ số cổ phiếu của quỹ ETF thay đổi, mà không xem xét đến khía cạnh cơ bản của mỗi cổ phiếu cấu thành chỉ số.
MSCI công bố những thay đổi trong rổ chỉ số MSCI mỗi năm 2 lần vào tháng 5 và tháng 11. FTSE công bố những thay đổi trong rổ chỉ số FTSE vào tháng 6 và tháng 12 mỗi năm. các cấu phần của chỉ số MVVNM được xem xét lại mỗi quý và việc thay đổi được thực hiện vào ngày vật dụng 6 tuần trang bị 3 trong tháng cuối cùng của quý (tháng 3, 6, 9 và 12).
Chỉ số mà MSCI, FTSE và những công ty khác lập ra được tiêu dùng để xây dựng những qu ỹ ETF và là tiêu chuẩn cho phổ biến quỹ đầu tư cho người dùng cá nhân và tổ chức khắp thế giới cho nên lúc những thành phần mới trong rổ chỉ số được công bố, giá của các mã chứng khoán này sở hữu xu hướng tăng mạnh.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét